Hải sản được xem là một nguồn thực phẩm quan trọng, giàu protein và khoáng chất. Tuy nhiên, nhiều báo cáo cho thấy nguy cơ mắc bệnh truyền qua thực phẩm khi ăn hải sản chứa các tác nhân gây bệnh. Trong số các vi khuẩn gây bệnh cho con người phân lập được từ hải sản,Vibrio(V.) parahaemolyticuslà vi khuẩn phổ biến nhất và được xem là nguyên nhân hàng đầu gây ngộ độc thực phẩm liên quan tới ăn hải sản sống hay chưa được nấu chín trên thế giới. Do đó, việc chẩn đoán, phát hiện và định lượng nhanh vi khuẩn này trong hải sản trong phòng thí nghiệm là rất cần thiết. Phương pháp nuôi cấy vi dafabet vật thường quy có nhược điểm tiêu tốn thời gian và có biến đổi trong các phản ứng dafabet hóa nên độ đặc hiệu không cao, không phân biệt được rõ ràngV. parahaemolyticusvới các loàiVibriokhác. Để rút ngắn thời gian cũng như nâng cao độ nhạy và độ đặc hiệu khi định lượngV. parahaemolyticustrong hải sản, cần áp dụng kết hợp phương pháp nuôi cấy vi dafabet vật thường quy với phương pháp dafabet học phân tử.
Bên cạnh đó, hiện nay sự gia tăng của các vi khuẩn kháng kháng dafabet bao gồm cảV. parahaemolyticus, đặc biệt là những vi khuẩn có khả năng sản dafabet men kháng kháng dafabet β-lactamases phổ rộng (ESBL) đã được báo cáo trên toàn thế giới. Những vi khuẩn có khả năng sản dafabet ESBL đã được phát hiện ở gia súc, gia cầm, động vật cảnh, thực phẩm có nguồn gốc động vật và cả trên người. Từ những khó khăn ngày càng tăng trong việc điều trị bệnh trên người và động vật, cùng với những bằng chứng cho thấy sự lây truyền giữa người và động vật, vi khuẩn sản dafabet men kháng kháng dafabet β-lactamases phổ rộng (ESBL) đã trở thành mối lo ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên ở nước ta hiện tại, nghiên cứu về các vi khuẩn, cụ thể làV. parahaemolyticussản dafabet men kháng kháng dafabet β-lactamases phổ rộng còn rất hạn chế. Chính vì vậy, với sự hỗ trợ kinh phí của Học viện, nhóm nghiên cứu thuộc khoa Thú y đã tiến hành thực hiện đề tài trọng điểm cấp Học viện - mã số T2019-03-03TĐ “Nghiên cứu định lượngVibrio parahaemolyticustrong hải sản bằng phương pháp Most Probable Number - Polymerase Chain Reaction (MPN-PCR) và xác định khả năng sản dafabet men kháng kháng dafabet β-lactamases phổ rộng (ESBL) của các chủngVibrio parahaemolyticusphân lập được”.
Tổng số 120 mẫu hải sản đã được thu thập tại 10 quận trên địa bàn thành phố Hà Nội, bao gồm mẫu cá biển, hàu, mực và tôm. Kết quả phân tích cho thấy,V. parahaemolyticusđược phát hiện trong 70 mẫu trên tổng số 120 mẫu kiểm tra, chiếm tỷ lệ 58,33%. Phần lớn các mẫu tôm cho kết quả dương tính vớiV. parahaemolyticus(86,67%). Tỷ lệ mẫu dương tính đối với mẫu mực và mẫu cá đều là 53,33%. Mẫu hàu có tỷ lệ dương tính vớiV. parahaemolyticusthấp nhất (40%). Kết quả phân tích cho thấy có sự sai khác về tỷ lệ nhiễmV. parahaemolyticusgiữa các loại mẫu hải sản được kiểm tra.V. parahaemolyticusmang gentrhđược phát hiện trong 1 mẫu hàu kiểm tra.
Kết quả định lượng cho thấy lượngV. parahaemolyticustrên các loại hải sản dao động trong khoảng 0,56 - 4,97 log10(MPN/g) và trung bình là 2,93 log10(MPN/g). Trong số bốn loại hải sản kiểm tra, lượngV. parahaemolyticustrong mẫu tôm là cao nhất, tiếp đến là mẫu mực và mẫu cá, lượngV. parahaemolyticustrong mẫu hàu là thấp nhất (p< 0,05). Có 27,14% mẫu có lượng V. parahaemolyticus< 2 log10(MPN/g), 44,29% mẫu có lượngV. parahaemolyticustrong khoảng 2 - 4 log10(MPN/g) và 28,57% mẫu vượt quá 4 log10(MPN/g).
Kết quả xác đinh khả năng sản dafabet men kháng kháng dafabet β-lactamases phổ rộng (ESBL) củaV. parahaemolyticuscho thấy 7,14% chủngV. parahaemolyticussản dafabet ESBL, trong đó có 1 chủng được phân lập từ mẫu cá, 2 chủng phân lập từ mẫu mực, 2 chủng phân lập từ mẫu tôm và không có chủng nào phân lập từ mẫu hàu có khả năng sản dafabet ESBL. Tỷ lệV. parahaemolyticussản dafabet ESBL trong nghiên cứu này tuy không cao nhưng cũng đưa ra cảnh báo về sự hiện diện củaV. parahaemolyticussản dafabet ESBL trong hải sản
Từ những kết quả thu được, nhóm nghiên cứu đề xuất tiếp tục nghiên cứu đánh giá nguy cơ ô nhiễmV. parahaemolyticustrong hải sản theo chuỗi sản xuất, từ các trang trại nuôi thủy hải sản đến các khâu như thu hoạch, phân phối; từ đó làm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp giảm thiểu ô nhiễmV. parahaemolyticustrong hải sản. Bên cạnh đó, việc sử dụng kháng dafabet trong nuôi trồng thủy sản cũng cần được kiểm soát chặt chẽ hơn, để giảm thiểu nguy cơ hình thành và lan rộng vi khuẩn kháng kháng dafabet trong nuôi trồng thủy sản.
Một số hình ảnh trong quá trình triển khai đề tài
    |
 |
Khuẩn lạcV. parahaemolyticustrên thạch TCBS |
TS. Vũ Thị Thu Trà và Nhóm nghiên cứu, Khoa Thú y